leftcenterrightdel
 

 

Đến nay, không có một văn bản nào của Nhà nước quy định về khái niệm “sổ đỏ” và “sổ hồng”; chính vì vậy, khái niệm sổ đỏ, sổ hồng là những khái niệm không được công nhận chính thức bởi các quy định của pháp luật của nhà nước. Song trong thực tiễn, “người dân” thường căn cứ vào màu sắc bên ngoài của các loại giấy tờ đó và gọi tắt thành thuật ngữ: sổ đỏ, sổ hồng. Để có thể phân biệt và hiểu hơn về giá trị pháp lý của các loại giấy tờ này, chúng ta có thể tiếp cận dựa trên các góc độc pháp lý sau đây:

-Sổ đỏ” hoặc có thể gọi bằng những cái tên quen thuộc như “giấy đỏ”, “bìa đỏ” có tên gọi pháp lý là "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" do Bộ Tài Nguyên và Môi trường ban hành trước ngày 10/12/2009. Từ đó có thể hiểu: sổ đỏ được Nhà nước cấp trong thời gian này cho người sử dụng đất ở nông thôn; chủ sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản và đất làm muối để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

- “Sổ hồng” có tên gọi của “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở” được cấp bởi Bộ Xây dựng trước ngày 10/8/2005, đổi thành “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu công trình xây dựng” và được cấp từ ngày 10/8/2005 đến trước ngày 10/12/2009. Từ đó có thể hiểu: sổ hồng được Nhà nước cấp trong thời gian này cho chủ sở hữu nhà đồng thời là chủ sử dụng đất ở hoặc chủ sở hữu căn hộ trong nhà chung cư ở khu vực đô thị để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Tuy nhiên, từ ngày 10/12/2009 trở đi (ngày Nghị định 88/2009/NĐ-CP về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có hiệu lực), hai loại giấy nêu trên được quy định thống nhất thành một loại giấy chung có tên gọi là: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Giấy chứng nhận này cũng có bìa màu hồng) do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành và áp dụng chung trên phạm vi cả nước.

Duy trì quan điểm của Nhà nước về mẫu giấy chứng nhận theo Nghị định 88/2009/NĐ-CP, tại Điều 97, Luật Đất đai 2013 hiện hành, quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất theo một loại mẫu thống nhất trong cả nước. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định cụ thể về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở đồng thời chủ sử dụng đất ở, hoặc chủ sở hữu căn hộ trong nhà chung cư, Nhà nước nhấn mạnh: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã được cấp theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở, pháp luật về xây dựng trước ngày 10.12.2009 vẫn có giá trị pháp lý và không phải đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Trường hợp người đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 10.12.2009 có nhu cầu cấp đổi thì được đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này.

Như vậy, sổ hồng hay sổ đỏ đều có giá trị pháp lý như nhau. Hy vọng bài viết của tác giả có thể giúp độc giả phân biệt được hai khái niệm sổ hồng và sổ đỏ, đồng thời hiểu rõ hơn về giá trị pháp lý của từng loại giấy tờ nêu trên để biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Lê Thị Yến - Khoa Khoa học xã hội