Trong năm 2025, nhóm nghiên cứu mạnh (NCM) Công nghệ Sinh học Môi trường và Nông nghiệp đã tổ chức 4 buổi seminar khoa học và 2 buổi seminar mời chuyên gia tư vấn để trao đổi học thuật thuộc lĩnh vực Công nghệ sinh học ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường tại phòng họp Bộ môn Vi sinh vật, Khoa Tài nguyên và Môi trường.
Tại buổi Seminar đầu tiên, nhóm NCM đã có những thảo luận với các báo cáo chuyên đề liên quan đến sự biến đổi khí hậu và các công nghệ ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp. Báo cáo “Hiện trạng đất nhiễm mặn tại tỉnh Thái Bình năm 2024” ThS Nguyễn Tú Điệp đã trình bày kết quả khảo sát cho thấy độ mặn đất tại 2 huyện ven biển Thái Thụy, Tiền Hải (Thái Bình cũ) có giá trị EC dao động từ 1,96 – 4,06 mS/cm và hầu hết ở mức độ mặn ít và đề xuất sử dụng chế phẩm sinh học để cải tạo và sử dụng hiệu quả đất nhiễm mặn tại đây. Chuyên đề “Tìm hiểu sử dụng trấu hun để làm đệm lót sinh học trong chăn nuôi gà lồng” TS. Đinh Hồng Duyên trình bày kết quả nghiên cứu sử dụng trấu hun theo tỷ lệ 75, 85 và 95% kết hợp với than bùn làm đệm lót sinh học ở hình thức nuôi gà lồng đã giúp giảm mùi hôi, hàm lượng dinh dưỡng và trọng lượng đệm thu được đều tốt hơn so với chỉ dùng trấu tươi thu phân trong chăn nuôi.
TS. Vũ Thị Hoàn đã trao đổi về “Tìm hiểu những nghiên cứu về bệnh thối nhũn trên cây trồng”, Nghiên cứu chỉ rõ bệnh thối nhũn (soft rot) là một trong những bệnh thực vật gây thiệt hại lớn cho cây trồng và hoa cây cảnh toàn cầu, chủ yếu do các vi khuẩn thuộc nhóm Soft Rot Pectobacteriaceae (SRP), gồm hai chi Pectobacterium và Erwinia (Dickeya) gây ra do chúng sinh enzyme ngoại bào phân hủy thành tế bào thực vật. Bệnh này có thể được kiểm soát nhờ canh tác giống cây sạch bệnh, đất trồng đảm bảo thoát nước tốt, khô thoáng, bón phân cân đối và sử dụng kèm theo các sản phẩm chứa vi sinh vật đối kháng. Nhóm cũng thảo luận về nghiên cứu “Bước đầu ứng dụng than sinh học chế biến từ lõi ngô để hấp phụ amoni trong nước thải biogas” của ThS. Lê Thị Mai Linh, trong đó đề xuất quy trình 3 bước để chế tạo vật liệu than sinh học từ lõi ngô. Tuy hiệu suất xử lý nước thải của loại than này chưa cao nhưng đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện chất lượng nước.
    |
 |
| Các thành viên trình bày tham luận tại seminar |
Buổi seminar khoa học thứ 2 với chủ đề về công nghệ lên men chế biến quả tươi sau thu hoạch, công nghệ kiểm soát bệnh cây trồng và nước uống. PGS.TS. Nguyễn Thị Minh đã trình bày kết quả
“Nghiên cứu lên men nước quả xoài”.
Nghiên cứu đã tuyển chọn được chủng nấm men
Saccharomyces cerevisiae có khả năng lên men cao và hoạt tính sinh học tốt, an toàn để ứng dụng trong sản xuất nước xoài lên men ở điều kiện thích hợp. Nước xoài lên men đạt nồng độ cồn mong muốn (đạt 5,1% v/v), có hương vị thơm ngon, hài hoà và dễ uống, có điểm cảm quan cao, đạt tiêu chuẩn TCVN 3215-79. Với mục đích
“Tìm hiểu sử dụng nano bạc đồng trong phòng trừ bệnh trên cây cam”, TS. Đinh Hồng Duyên đã trình bày vấn đề về sử dụng nano kim loại có tác dụng phòng trừ bệnh hại hiệu quả trên cây cam, giảm tỷ lệ quả rụng và tăng lợi nhuận cho người trồng cam.
Tham luận “Vai trò của polyphenol thực vật trong việc tăng cường miễn dịch cho vật nuôi” do TS. Đoàn Thị Thúy Ái trình bày đã giới thiệu về nhóm hợp chất tự nhiên có hoạt tính chống oxy hóa, kháng viêm và điều hòa miễn dịch mạnh, có tiềm năng cải thiện hiệu suất sinh trưởng và giảm tỷ lệ bệnh, góp phần thay thế kháng sinh trong chăn nuôi theo hướng an toàn và bền vững. Việc bổ sung polyphenol từ các nguồn thảo dược như trà xanh, nghệ, lá ổi… vào khẩu phần ăn vật nuôi giúp tăng cường đáp ứng miễn dịch, giảm stress oxy hóa và nâng cao sức đề kháng đối với các tác nhân gây bệnh.
TS. Vũ Thị Hoàn trình bày chuyên đề “Tìm hiểu công tác quản lý rác thải sinh hoạt tại khu du lich Tam Đảo”. Báo cáo cho thấy công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Tam Đảo hiện còn nhiều hạn chế khi lượng rác phát sinh từ hộ dân, cơ sở lưu trú và khách du lịch ngày càng tăng, trong khi hệ thống thu gom, vận chuyển và xử lý chưa đáp ứng kịp nhu cầu thực tế, cần có giải pháp quản lý phù hợp.
    |
 |
| Các thành viên trình bày tham luận tại seminar |
Buổi seminar khoa học tiếp theo nhóm đã tham gia thảo luận với 4 báo cáo chuyên đề thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. ThS. Nguyễn Tú Điệp mở đầu với báo cáo “Nghiên cứu xây dựng quy trình sử dụng chế phẩm sinh học cho cây dưa lê trên đất nhiễm mặn”. Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được Quy trình ứng dụng CPSH cho cây dưa lê trên đất nhiễm mặn nhân tạo, cây dưa lê được bón CPSH có khả năng sinh trưởng phát triển và sức chống chịu điều kiện bất lợi của môi trường tốt hơn đối chứng.
    |
 |
| Xây dựng quy trình sử dụng CPSH cho cây dưa lê trên đất mặn |
Báo cáo về “Ứng dụng protein đơn bào trong thực tiễn” được ThS. Lê Minh Nguyệt đưa ra thảo luận đã chỉ rõ sản xuất protein đơn bào có rất nhiều ưu điểm vượt trội so với sản xuất protein truyền thống ví như tốc độ sinh trưởng cao hơn. TS. Đào Thị Thùy Linh đã tiếp tục buổi thảo luận với các trao đổi về “Công nghệ khử trùng lượng tử – Giải pháp không hóa chất để kiểm soát mầm bệnh trong hệ thống nước uống”. Những thách thức về kỹ thuật, chi phí và tiêu chuẩn đánh giá môi trường được phân tích một cách hệ thống. Từ đó, bài trình bày đề xuất các định hướng nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả dài hạn và tác động sinh thái khi ứng dụng trong điều kiện thực tế.
TS. Nguyễn Thị Hiển với tham luận “Thành phần và hoạt tính sinh học của vỏ cây sung Ficus racemosa” đã chia sẻ kết quả nghiên cứu về hoạt tính chống oxy hóa, tiểu đường và chống viêm mạnh mẽ của vỏ cây sung, góp phần khẳng định tiềm năng của cây sung như các tác nhân trị liệu tự nhiên.
    |
 |
| Các thành viên trình bày tham luận tại seminar |
Tại buổi Seminar thứ 4 của nhóm NC ThS. Lê Minh Nguyệt đã đưa ra thảo luận về nghiên cứu “Phân lập và tuyển chọn vi sinh vật có khả năng sinh enzyme gelantinase để thủy phân phế phụ phẩm ngành giết mổ, chế biến thịt lợn”. Sản phẩm sau thuỷ phân có hàm lượng dinh dưỡng cao, giúp động vật và cây trồng dễ hấp thụ, làm tăng hiệu quả sử dụng. Tham luận về “Công nghệ điện giải nước – Tác động tiềm năng của hydro phân tử (H₂) lên chất lượng nước và hệ sinh thái” của TS. Đào Thị Thùy Linh giới thiệu nguyên lý của công nghệ điện giải nước, sự hình thành hydro phân tử trong quá trình này và chỉ ra các vấn đề còn tồn tại, bao gồm sự thiếu thống nhất trong phương pháp đánh giá và dữ liệu thực nghiệm dài hạn và nhấn mạnh sự cần thiết của các nghiên cứu liên ngành nhằm đánh giá toàn diện tác động môi trường của công nghệ điện giải nước. TS. Nguyễn Thị Hiển đã kết thúc buổi sinh hoạt chuyên môn của nhóm NCM với chia sẻ về “Bước đầu nghiên cứu màng sinh học bổ sung dịch chiết lá ổi”. Cao chiết ethanol của mẫu lá ổi có hàm lượng polyphenol cao với hoạt tính kháng nấm mạnh. Từ cao chiết này, nhóm nghiên cứu đã bước đầu tổng hợp được màng sinh học CGG4 (chitosan:gelatin:glycerin = 1%:3%:1%) có độ bền kéo đứt cao nhất và khả năng kháng thấm nước tốt nhất (thời gian thấm 35,2 giây). Màng sinh học được ứng dụng trong bảo quản quả ớt làm giảm đáng kể tỷ lệ hư hỏng, giảm hao hụt khối lượng và duy trì hàm lượng vitamin C tốt hơn.
    |
 |
| TS. Nguyễn Thị Hiển và TS. Đào Thị Thuỳ Linh chia sẻ nghiên cứu |
Bên cạnh việc tổ chức các buổi Seminar nhằm trao đổi chuyên môn giữa các thành viên và sinh viên, trong quý IV 2025, nhóm NCM Công nghệ sinh học Môi trường và Nông nghiệp cũng đã tổ chức 02 buổi Seminar khoa học chuyên sâu với sự tham gia tư vấn của các chuyên gia gồm TS. Vũ Thị Bích Hạnh (Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp) và NCS. Đỗ Tất Thủy (Viện Cơ điện Nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch).
Tại các buổi seminar này các chuyên gia tư vấn đã trao đổi chuyên môn về nội dung: “Công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch”. Trong đó, ThS. Đỗ Tất Thuỷ đã trình bày tham luận về “Các công nghệ, ứng dụng trong bảo quản và chế biến nông sản”, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học giúp nâng cao chất lượng củ quả thu hoạch, đồng thời sản xuất nhiều loại sản phẩm chế biến có lợi cho sức khoẻ, làm gia tăng chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, PGS.TS. Nguyễn Thị Minh đã trình bày báo cáo về “Công nghệ vi sinh trong sản xuất nông nghiệp tuần hoàn” cho thấy vai trò quan trọng của công nghệ vi sinh trong sản xuất nông nghiệp tuần hoàn do khả năng lên men và kháng khuẩn tạo sản phẩm chế biến đa dạng, có lợi cho sức khoẻ và khả năng phân hủy, chuyển hóa và tái tạo tài nguyên sinh học của vi sinh vật, giúp phát triển nông nghiệp bền vững, cho hiệu quả cao và thân thiện môi trường.
    |
 |
| Các chuyên gia tư vấn trình bày nghiên cứu tại seminar |
Với semminar tư vấn và trao đổi về nội dung chuyên môn : “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học trong trồng trọt”. TS. Vũ Thị Bích Hạnh đã trình bày “Phương pháp thiết kế và tổ chức thực hiện các mô hình ứng dụng CNSH trong canh tác cây trồng” ngoài đồng ruộng với các gợi ý về các nghiên cứu đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp hiện nay. TS. Đoàn Thị Thuý Ái trình bày bài tham luận: “Các hợp chất thứ cấp từ thực vật - tiềm năng kiểm soát nấm bệnh hại cây trồng”. Các nhóm chất thiên nhiên như tinh dầu, polyphenol, alkanoid có khả năng ức chế hiệu quả nấm bệnh hại cây trồng do chúng tác động lên màng tế bào, enzyme và quá trình sinh trưởng của nấm, đồng thời tăng cường cơ chế phòng vệ của cây. Tuy nhiên, hiệu qủa ứng dụng thực tế còn phụ thuộc vào dạng bào chế, độ ổn định và liều lượng sử dụng. Đây là hướng nghiên cứu triển vọng cho phát triển các chế phẩm sinh học trong nông nghiệp bền vững.
Các hoạt động chuyên gia tư vấn đã góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu, cập nhật kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm ứng dụng thực tiễn, đồng thời hỗ trợ nhóm NCM có định hướng xây dựng các ý tưởng hợp tác nghiên cứu với các mô hình ứng dụng Công nghệ sinh học phù hợp với điều kiện thực tế, đặc biệt trong bối cảnh nước ta chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, theo định hướng phát triển công nghiệp CNSH của chính phủ và xu hướng phát triển nông nghiệp tuần hoàn bền vững, giảm phát thải tại Việt Nam.
Các buổi Seminar của nhóm NCM Công nghệ Sinh học Môi trường và Nông nghiệp đã giúp các thành viên trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu và có kế hoạch triển khai các ý tưởng sáng tạo, qua đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu.
PGS.TS. Nguyễn Thị Minh,
Trưởng nhóm NCM Công nghệ sinh học - Môi trường và Nông nghiệp