Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam là một trong những bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, bài học này đã được tổng kết theo thực tiễn. Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh: “năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (ĐSCVN, 2021, t1, tr.34).

Trong lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam trước khi có Đảng thì hầu hết các phong trào yêu nước, cách mạng dù có anh dũng đến mấy, kiên cường nhường nào thì cũng đều đi đến thất bại. Nhưng kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.

Vừa mới ra đời Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945, đưa nước ta thành nước độc lập, đưa dân ta trở thành người dân tự do. Từ đây, Đảng chính thức trở thành Đảng chính trị cầm quyền ở Việt Nam. Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam phải đối phó với muôn vàn khó khăn: giặc đói, giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm, khiến vận mệnh của dân tộc ta rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng với những chủ trương, sách lược sáng suốt, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những thác nghềnh khó khăn, giữ vững chính quyền cách mạng và chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến  toàn quốc sau này.

Ngay sau khi thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước vừa kháng chiến, vừa xây dựng, kiến thiết đất nước. Bằng đường lối kháng chiến linh hoạt và sáng tạo: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính mà Đảng đưa ra, nhân dân Việt Nam một lần nữa đã làm phá sản âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng hoàn toàn miền Bắc tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam.

Hiệp định Giơnevơ được ký kết lập lại hòa bình trên miền Bắc nước ta, nhưng đế quốc Mỹ và tay sai đã tìm mọi cách phá hoại Hiệp định, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước biến động mới của lịch sử, Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tình hình thực tiễn nước ta bằng cách đề ra hai nhiệm vụ chiến lược cho giai đoạn 1954-1975: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam. Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, nhân dân hai miền Nam Bắc đã chiến đấu và chiến thắng giòn giã trước đế quốc Mỹ-kẻ thù mạnh nhất thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc.

Đất nước có hòa bình và thống nhất nhưng vẫn chồng chất khó khăn, Việt Nam là một nước nghèo và bị chiến tranh tàn phá hết sức nặng nề. Hàng triệu người bị chết và tàn tật bởi chiến tranh, bom đạn và chất độc màu da cam mà quân Mỹ rải xuống Việt Nam. Ngay sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ kết thúc, đất nước lại phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh biên giới: lực lượng phản động Pôn Pốt gây chiến tranh biên giới Tây Nam, quân bành trướng Trung Quốc mở chiến tranh xâm lược biên giới phía Bắc. Trước tình thế đó, Đảng vừa lãnh đạo cả nước khôi phục kinh tế đất nước sau chiến tranh vừa đánh bại các cuộc chiến tranh của kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả.

Những tưởng khó khăn sẽ qua để nhân dân Việt Nam có điều kiện xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, thế nhưng các thế lực thù địch không chịu lùi bước. Nước ta lại bị Mỹ, phương Tây, Trung Quốc và một số nước ASEAN bao vây, cấm vận làm cho tình hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp gây bất lợi cho Việt Nam. Tư tưởng chủ quan, say sưa với thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp bộc lộ ngày một rõ, làm cho tình hình kinh tế- xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng khan hiếm, đời sống nhân dân khó khăn, có tới 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ làm cho niềm tin của nhân dân đối với Đảng bị xói mòn.

Trước thực tế đó, Đảng đã nghiêm túc phê bình với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, đồng thời đưa ra quyết tâm đổi mới đất nước với tinh thần lấy dân làm gốc. Đại hội VI của Đảng đã khẳng định đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, trong đó nhấn mạnh đổi mới kinh tế trên cơ sở đổi mới chính trị và luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra là kết quả của sự khảo nghiệm thực tiễn và đổi mới tư duy lý luận; là bước phát triển của ý nghĩa cách mạng trong nhận thức và hành động của Đảng với chủ trường, chính sách mang tính đột phá đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.

Sau Đại hội VI, Việt Nam bắt đầu thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sau 35 đổi  mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (ĐCSVN, 2021, t1, tr.25). Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người chỉ vẻn vẹn 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt gần 3.000 USD/năm.

Sau 35 năm đổi mới, từ chỗ thiếu ăn phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam không những đảm bảo được an ninh lương thực mà còn trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ… luôn ở mức cao. Điều đặc biệt là trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD- cao nhất trong 5 năm liên tiếp kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.

Những thành tựu về kinh tế cho thấy đường lối đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; gắn với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế; phát huy nguồn lực con người… là những đột phá lý luận cơ bản và sáng tạo của Đảng qua các kỳ Đại hội, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Trong suốt những năm đổi mới, Đảng đã luôn quan tâm đến việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Từ một nền kinh tế bao cấp đã dần chuyển trọng tâm trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận phân hóa giàu nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đạt những thành tựu quan trọng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993, xuống 22% năm 2005, 9,4% năm 2010, 7% năm 2015 và đến năm 2020 chỉ còn 3%. Phong trào xây dựng nông thôn mới có nhiều thành tựu đáng kể, 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia; trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Về giáo dục Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, giáo dục phổ thông cơ sở vào năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong vòng 35 năm. Vị thế của giáo dục đại học Việt Nam cũng được nâng lên trong bản xếp hạng Châu Á và thế giới, lần đầu tiên có 4 cơ sở giáo dục đại học lọt vào tốp 1000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang dần trở thành điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế những năm gần đây. Các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh cho nhân dân được tăng cường hiện đại. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới có hệ thống y tế hoàn chính, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật y tế công nghệ cao mang tầm thế giới: ghép chi, tim, gan, thận...kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm trong đó có Covid-19, chủ động nghiên cứu và sản xuất được nhiều loại vắc-xin, đặc biệt là vắc-xin phòng Covid-19. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng lên 73,7 tuổi vào năm 2020. Công tác chăm sóc người có công với cách mạng được quan tâm chu đáo. Đời sống văn hóa của nhân dân cũng được cải thiện đáng kể, sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ thông tin cao nhất thế giới với 70% dân số sử dụng internet. Liên hiệp quốc công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu thiên niên kỷ. Năm 2019, Việt Nam thuộc nhóm nước có chỉ số HDI cao của thế giới với mức 0,704.

leftcenterrightdel
 

Ảnh: Học viện Nông nghiệp Việt Nam- nơi đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thời kỳ đổi mới.

Trong suốt 35 đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, cô lập,  Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược vè kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế nước ta là kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã ký két 15 FTA khu vực và song phương, đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Việt Nam hiện là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế, có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của thế giới. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và chủ tịch AIPA và hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh đại đoàn kết toàn sân tộc được củng cố, dân chủ xã hội chủ nghĩa được tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng được hoàn thiện. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệu, hiệu quả hơn. Nhìn một cách tổng thể, mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước được thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ, hiệu quả, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng lòng ủng hộ, tin tưởng, bạn bè quốc tế tín nhiệm.

“Những thành tựu của công cuộc đổi mới là sản phẩm kết tinh của sức sáng tạo và là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng; tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”(ĐCSVN, 2021, t1, tr.25-26).

Thời gian là hòn đá thử vàng, 91 năm là giai đoạn đặc biệt của cách mạng nước ta, là thời gian mà đất nước và dân tộc vượt qua nhiều thách thức, có lúc hiểm nghèo. Mỗi lần vượt qua thử thách, Đảng và dân tộc Việt Nam lại trưởng thành, vươn kên tạo dựng mốc son mới. Những mốc son chói ngời đó chứng minh rõ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[2] Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

ThS. Vũ Thị Thu Hà - Khoa KHXH